Sự hợp tác này thúc đẩy ra
đời các sản phẩm hàng hóa thương hiệu Việt có tính cạnh tranh cao, dần hình
thành thị trường khoa học và công nghệ (KH và CN). Tuy nhiên, để việc hợp tác
đạt hiệu quả hơn nữa, cần những chính sách, mô hình phù hợp.
Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên (Viện Hàn lâm Khoa học và
Công nghệ Việt Nam) chuyển giao quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học cho
doanh nghiệp.
Vừa qua, Viện Hóa học các
hợp chất thiên nhiên (Viện Hàn lâm KH và CN Việt Nam) chuyển giao kết quả
nghiên cứu về chiết xuất hoạt chất KG1 từ cây địa liền cho một doanh nghiệp để
sản xuất sản phẩm chăm sóc sức khỏe. Ðại diện doanh nghiệp cho biết, khi công
trình nghiên cứu KG1 của các nhà khoa học đầu ngành đáp ứng được tiêu chí của
doanh nghiệp về sử dụng nguyên liệu dược liệu trong nước, đơn vị quyết định hợp
tác, nhằm phát triển các bài thuốc cổ truyền thành dạng bào chế hiện đại, có
minh chứng khoa học. Việc chuyển giao quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học
của đề tài cho doanh nghiệp là một trong rất nhiều công trình nghiên cứu của
Viện Hàn lâm KH và CN Việt Nam có khả năng phát triển và ứng dụng. TS.Hà Quý
Quỳnh, Trưởng ban Ứng dụng và Triển khai công nghệ (Viện Hàn lâm KH và CN Việt
Nam) cho biết, gần đây nhiều đề tài, dự
án KH và CN của các đơn vị nghiên cứu đã được ứng dụng trong thực tế, góp phần
nâng cao hiệu quả sản xuất, phát triển thị trường KH và CN. Ngày càng nhiều
doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp sản xuất thuốc, thực phẩm chức năng hợp tác
với nhà khoa học. Hình thức hợp tác thường là doanh nghiệp đặt hàng, tài trợ
chi phí nghiên cứu, bao tiêu đầu ra hoặc doanh nghiệp nhận chuyển giao công
nghệ để phát triển sản phẩm. Một số công nghệ điển hình đã được chuyển giao
thời gian qua như: Viện Hóa học chuyển giao công nghệ bảo quản quả vải bằng
màng bao gói khí quyển Map cho doanh nghiệp kinh doanh, xuất khẩu quả vải tại
tỉnh Bắc Giang. Công nghệ này cũng được ứng dụng trong bảo quản măng tây tại
tỉnh Ninh Thuận; quy trình sản xuất dòng sản phẩm bảo vệ sức khỏe Metaherb cho
Công ty Hoàng Châu và Công ty Phương Ðông; Viện Nghiên cứu và Ứng dụng công
nghệ Nha Trang chuyển giao công nghệ chế tạo phức hệ NANO EXTRA XFGC dùng trong
phòng và hỗ trợ điều trị ung bướu cho Công ty cổ phần Dược phẩm GoldHealth Việt
Nam; Viện Hải dương học chuyển giao kết quả nghiên cứu ứng dụng đèn Led cho
nghề lưới vây kết hợp ánh sáng khai thác thủy sản xa bờ cho doanh nghiệp và ngư
dân khu vực ven biển miền trung và Công ty Rạng Ðông; Viện Công nghệ sinh học
chuyển giao nhiều công nghệ trong lĩnh vực công nghệ sinh học, nổi bật như
chuyển giao kết quả nghiên cứu Natuzen cho Công ty cổ phần Dược Hậu Giang sản
xuất thuốc hạ men gan...
Xu
hướng doanh nghiệp thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học để có các sản
phẩm cạnh tranh đang bắt đầu phát triển. Doanh nghiệp có vốn, có khả năng kinh
doanh nhưng không có công nghệ, khi kết hợp với nhà khoa học, nhận chuyển giao,
doanh nghiệp không phải bỏ thời gian, kinh phí, nhân lực để nghiên cứu, còn các
nhà khoa học có thêm nguồn lực tài chính để tái đầu tư nghiên cứu sâu hơn, công
nghệ mới hơn, phục vụ nhu cầu xã hội. PGS,TS Phí Quyết Tiến, Phó Viện trưởng
Công nghệ sinh học (Viện Hàn lâm KH và CN Việt Nam) thừa nhận, kinh nghiệm về
khảo sát và phát triển thị trường của doanh nghiệp giúp các nhà khoa học định
hướng tạo ra sản phẩm tốt hơn, đáp ứng yêu cầu thực tế và phù hợp với người sử
dụng. Việc ngày càng nhiều doanh nghiệp tiếp nhận kết quả nghiên cứu để triển
khai sản xuất sẽ là động lực để các nhà khoa học có trách nhiệm hơn với kết quả
nghiên cứu của mình, cùng doanh nghiệp tạo ra sản phẩm có tính cạnh tranh cao.
Tuy nhiên, nhiều nhà khoa
học cho rằng, cần có hành lang pháp lý đầy đủ và cơ chế phù hợp để hoạt động
chuyển giao công nghệ thuận lợi hơn. Thực tế, có trường hợp doanh nghiệp ký hợp
đồng nhận chuyển giao nguyên liệu sản xuất thực phẩm chức năng từ các nhà khoa
học, nhưng một thời gian sau đó không sử dụng nguyên liệu được chuyển giao mà
đi mua từ nguồn khác rẻ tiền, kém chất lượng. Trong khi đó, nhà khoa học không
thể kiểm soát được chất lượng sản phẩm theo các tiêu chí nghiên cứu. Khắc phục
bất cập này, cần xây dựng cơ chế để các cơ sở nghiên cứu khoa học đẩy mạnh hình
thành doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực KH và CN, trong đó gắn kết chặt chẽ
giữa nhà khoa học, phòng thí nghiệm và doanh nghiệp. PGS,TS Phí Quyết Tiến kiến
nghị, nếu sản phẩm để cho nhà khoa học phát triển thì sản phẩm tạo ra bị hạn
chế về quy mô sản xuất, thiếu cạnh tranh về giá, khó có tính lan tỏa tốt; để
cho doanh nghiệp phát triển thì hạn chế về nghiên cứu phát triển (R&D) và
cải thiện chất lượng sản phẩm. Do đó, cần có mô hình doanh nghiệp về KH và CN,
được hình thành từ các nhà khoa học kết hợp chặt chẽ với doanh nghiệp để liên
tục phát triển, cải thiện sản phẩm. Mô hình này cho phép cơ sở nghiên cứu và
nhà sáng chế cùng sở hữu sản phẩm. Ðiều đó gắn quyền lợi và trách nhiệm của các
nhà khoa học, giúp việc nghiên cứu tận tâm, sát thực tế hơn.
Nguồn: Mai Hương